TỈNH THỨC TRONG “VỘI VÀNG” LÀ SỰ NGÔNG CUỒNG CỦA TUỔI TRẺ HAY LÀ SỰ NUỐI TIẾC CƠN MƯA THANH XUÂN ĐÃ, ĐANG VÀ SẮP TRÔI QUA?

TỈNH THỨC TRONG “VỘI VÀNG” LÀ SỰ NGÔNG CUỒNG CỦA TUỔI TRẺ HAY LÀ SỰ NUỐI TIẾC CƠN MƯA THANH XUÂN ĐÃ, ĐANG VÀ SẮP TRÔI QUA?

Bình minh thức giấc

Vội vàng vì em

Ta không muốn vừng dương nắng hạ

Khỏa lấp đi mùa xuân qua

Xin níu giữ dù là hồi ức

Ta ôm người hết mực thương yêu…

Trong “Vội vàng” ta nhận ra tiếng con tim yêu sôi nổi, trong “Vội vàng” ta nhận ra sự tiếc nuối của bản thân, trong “Vội vàng” ta nhận ra vạn vật trước mắt chỉ cần một cái quay đầu sẽ biến mất theo thời gian. Đừng trách bể xanh sao lại sớm hóa nương dâu, đừng trách tại sao quay đầu người xưa đã không gặp. Đời người ngắn ngủi, đi hết muôn vạn non sông, ngắm nhìn muôn vạn cảnh đẹp mới nhận ra sinh mệnh trong thời khắc tươi sáng nhất cũng đã ẩn chứa sự lụi tàn. Ta không thể một tay ôm hết núi sông cũng không thể khống chế thời không để vĩnh hằng tất cả…

Trong hành trình đi tìm ý nghĩa của nhân sinh, con người sẽ đau đớn nhận ra sự nghiệt ngã của thời gian, sự quay cuồng của định mệnh, nhân thế chỉ có thể bước đi không thể quay đầu, đằng sau tiếng bước chân chậm rãi là thềm lá rụng, là khói sương xa xăm mờ ảo, là con người đã trải qua ngàn vạn nỗi đau…

Trong đêm mưa gió lạnh, một người lãng tử khoác trường bào, tay cầm ô, một mình bước đi trong mưa, dáng cao gầy, hình hài cô độc, gương mặt hằn lên bao vết tích thời gian…Đời người như hạt bụi bên đường, theo gió phiêu dạt đến ngàn phương…Cũng có người điên cuồng đấu tranh cùng tạo hóa chỉ để giữ vẹn hương sắc ngày qua, ví như Xuân Diệu đã can đảm đứng giữa đất trời bao la mà thốt lên:

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất;

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.”

Là khát khao cháy bỏng đến ngông cuồng hay là tiếng kêu than đến tuyệt vọng khi bản thân rõ ràng biết, rõ ràng hiểu không một ai có thể thay đổi vòng quay luân chuyển của tạo hóa, không một ai có thể đem gió buộc lại, đem nắng tắt đi.

Gió là vị thần trên bầu trời xanh thẳm, tự do bay lượn khắp muôn nơi. Là vì gió thổi nên mới kéo áng mây bay, là vì gió thổi cho nên mặt hồ mới gợn sóng, là vì gió thổi nên lá mới rơi từng tiếng xào xạc, sinh mệnh này kết thúc sinh mệnh khác lại bắt đầu. Gió mang hương đi khắp nơi, gió mang hạt giống bay từ vùng này sang vùng khác, sau bao tháng ngày chìm nổi, hạt giống cũng tìm được nơi trú chân nảy mầm sinh mệnh mới…

Gió thổi hương bay đi nên người tiếc nuối, người muốn buộc cơn gió lại nhưng mấy ai ngờ càng níu giữ càng dễ mất đi. Người ta vẫn thường hay nói: gió là sinh vật vô tình nhất thế gian, đến đi không lời hẹn ước thì nói gì đến chữ “buộc”!!! Một chữ “buộc” khiến đời người phút chốc trôi qua, sao không để hương bay theo gió để hương sắc này lan tỏa khắp muôn nơi, để hương hòa lẫn vào từng cành cây ngọn cỏ?

Thế nhân sẽ làm gì nếu mặt trời không tỏa ánh nắng chiếu sáng nhân gian? Phải chăng là thế nhân sẽ chìm sâu trong bóng tối, sẽ ngủ một giấc thật dài quên mất sứ mệnh tương lai?

Mặt trời lên được báo hiệu bằng từng tia nắng nhạt, xiên qua từng cành cây, ngọn cỏ, từ từ chiếm lĩnh cả không trung, mặt trời lên tỏa sáng cả một vùng, kéo theo nó là cả sinh mệnh đang bắt đầu tỉnh thức.

Nắng sớm tinh khôi giúp con người tỉnh giấc, dang tay đón chào ngày mới, nắng sớm tinh khôi tuy còn mang chút giá lạnh nhưng lại đủ khiến thế nhân mỉm cười: Ngày mai rồi lại đến, chúng ta sắp bước vào một hành trình mới, hãy tạm quên quá khứ hôm qua…

Xưng “tôi” dõng dạc giữa đất trời, xưng “tôi” để khẳng định bản thân trước vũ trụ bao la, xưng “tôi” để người biết tôi đại diện cho ai, tôi có ước muốn gì? Xưng “tôi” để tôi có thể thẳng thắn bày tỏ quan điểm cá nhân với những khát khao tưởng chừng vô cùng vô tận nhưng lại rất đỗi trần thế, rất đỗi con người. Tôi muốn trở thành vị thần nắm giữ thời gian, tôi muốn điều khiển thời không, chặng đứng tất cả sự tàn phai, héo úa để mọi sự vật trên cõi đời này được mang vẻ đẹp vĩnh hằng sánh với vũ trụ bao la. Điệp ngữ “tôi muốn” hai lần vang lên dõng dạc như để khẳng định thêm ước muốn của một con người hiểu rõ quy luật tuần hoàn của đất trời nhưng vẫn muốn một lần kiêu ngạo với thế nhân. Xuất phát từ lòng yêu của cá nhân nhưng không thể phủ nhận những lí tưởng cao đẹp mà tác giả mang đến, hương của đất sắc của trời nếu có thể vĩnh hằng hóa thì sẽ tốt biết bao!

Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, mỗi câu năm chữ, giọng điệu khảng khái của một cá nhân dám đứng lên nói lên ước muốn của bản thân mình cho dù trong mắt người khác, ước muốn đó thật ngông cuồng, kì dị biết bao? Phải có lòng yêu đời, yêu cuộc sống đến độ nào tác giả mới có thể có ước muốn táo bạo và ngông cuồng như thế!

Có lẽ trong mắt người đời những ước muốn đó thật kì dị nhưng đối với thi nhân những ước muốn đó là phương châm sống, là lí tưởng mà đời này ông theo đuổi. Một lí tưởng tuy điên rồ nhưng chân thật, tuy thiết tha rạo rực nhưng ẩn chứa trong đó có phần tuyệt vọng bởi sự bất lực của bản thân trước cuộc đời, trước những mong muốn vượt quá tầm tay… Mở đầu bài thơ “Vội vàng” tác giả đã đặt một dấu chấm hỏi trong lòng độc giả, dấu chấm hỏi đó đòi hỏi phải được trả lời. Và câu trả lời đó nằm ngay ở những đoạn thơ sau…

Đứng trước những sự vật hữu hình với muôn vàn cảnh đẹp mĩ lệ, thử hỏi có mấy ai dám từ bỏ, mấy ai không mê luyến? Trần gian sẽ luôn rực rỡ nếu con người biết trân trọng, nâng niu và giữ gìn nó.

Với con mắt xanh non và biết rờn, thi sĩ Xuân Diệu đã thổi hồn vào mùa xuân với tiếng reo ca đầy vui tươi, rộn rã và đồng thời cũng lí giải lí do vì sao mình có những ước muốn táo bạo như thế:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tờ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si;

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,

Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;”

Thiên nhiên hiện hữu trong mùa xuân của đất trời, thiên nhiên tuyệt vời trong mắt của một con người đang yêu say đắm và cuồng nhiệt. Trái tim đập những vần thơ cháy bỏng, khắc họa thành từng câu chữ mộng mơ.

Con người hạnh phúc nên thiên nhiên cũng hạnh phúc. Con người mang vẻ thanh tân nên mùa xuân cũng mang vẻ tươi mới. Tất cả đều mới bắt đầu, sự sống đang dần hé mở sau mỗi câu thơ. Hòa cùng mùa xuân tươi thắm của đất trời là khung cảnh dập dìu ong bướm bay lượn trong vườn hoa đầy thanh sắc của tuổi trẻ, ong bướm bay về hút mật, tuy hoa chỉ nở một lần rồi tàn nhưng trong khoảnh khắc tươi đẹp nhất nó đã góp phần không nhỏ vào việc điểm tô hương sắc cho nhân gian. Cả khu vườn vào những ngày đông giá vẫn còn ngủ yên. Nhưng sau khi cánh hoa đầu tiên nở rộ, cả khu vườn bỗng lấp lánh hương sắc, bỗng nhộn nhịp hát ca, xua tan đi cái lạnh giá ngày nào. Tuần tháng mật ngọt đã đến, thiên nhiên, vạn vật, cả đất trời đang đắm mình trong hơi thở của mùa xuân, của tình yêu….

Với điệp ngữ tăng tiến “này đây”, Xuân Diệu đã mở ra muôn vàn cảnh sắc mùa xuân tươi đẹp. Trên nền cỏ xanh rì của đồng nội, hạ qua thu sang đông tàn rồi xuân lại đến, nền cỏ xanh rì ấy lại như được thay thêm một tà áo mới. Và lần này nền cỏ xanh được nữ thần mùa xuân điểm tô bởi muôn ngàn sắc thắm. Trên nền cỏ xanh lấp lánh những bông hoa với mọi sắc màu rực rỡ nhất, tươi tắn nhất đang đắm mình trong không khí mùa xuân, không gian đi từ sự cô đơn lạnh giá sang sự ấm áp, đoàn tụ, giao hòa. Sẽ là vô tình nếu ta chỉ nhắc đến hoa cỏ mà không nhắc đến những chiếc lá non mới nhú khỏi cành tơ mơn mởn, khung cảnh mùa xuân nơi đồng nội ngập tràn sức sống, không còn sự đơn lẻ của màu xanh mà được điểm tô bởi muôn hồng ngàn tía. Và vì là lá của cành cây còn non nên nó gợi lên một cái gì đó thanh tân, tươi mới có phần ngây thơ, hồn nhiên khiến con người ta muốn nâng niu, chiều chuộng. Quả là bút lực của Xuân Diệu thật tinh tế khi miêu tả cảnh vật như thế này.

Một khung cảnh đẹp thật sự nhất định sẽ có âm thanh, âm thanh đó có thể phát ra từ chính thiên nhiên, từ cành cây ngọn cỏ, từ những sinh vật ngày đêm lượn bay trên bầu trời, dâng cho đời những bản tình ca bất tận. Bên cạnh âm thanh của bướm ong dìu dặt, Xuân Diệu còn đắm mình trong khúc hát tình ca đầy mê luyến của yến anh đang réo rắt ngoài đồng nội, đang từng bước gọi mùa xuân về. “Của yến anh này đây khúc tình si”, rõ ràng thi sĩ đã có sự lựa chọn, tình ca mà yến anh hát không phải là khúc tình đơn côi không lời hồi đáp mà là khúc tình si khiến bao người đắm say.

Vườn xuân sẽ càng tuyệt sắc khi được tiếp thêm ánh sáng, Xuân Diệu cũng không quên điều đó, ông đã thổi hồn vào bức tranh xuân một luồng ánh sáng rất Xuân Diệu, một luồng ánh sáng chỉ mang thương hiệu của riêng ông, trước không có ai, sau chưa chắc đã có. Luồng ánh sáng này không xuất phát từ mặt trời, cũng không xuất phát từ mặt trăng, nó không xuất phát từ thiên nhiên mà nó xuất phát từ đôi mắt của một người thiếu nữ mang tên “ánh sáng”. Ánh sáng chớp nơi hàng mi gọi người thức giấc, đón chào mùa xuân mới sang, ánh sáng chớp hàng mi tuy còn mơ màng nhưng nó lại khiến cảnh vật hiện ra trước mắt thật lung linh, huyền ảo. Là vì ánh sáng chớp hàng mi nên con người buộc phải tỉnh giấc, phải đích thân mình trải nghiệm cảnh sắc tuyệt mĩ của mùa xuân, không thể cứ mãi đắm chìm trong giấc mơ đêm qua được nữa. Ánh sáng chớp hàng mi như lời kêu gọi: hãy mở mắt ra đi, hãy ngắm nhìn trần thế này, hãy từ tự tận hưởng những vẻ đẹp hiện hữu nơi trần gian, hãy nâng niu nó, hãy trân trọng nó, đừng tìm kiếm nơi xa, đừng ngủ quên mà bỏ mất hiện tại. Câu chữ đơn giản nhưng tinh tế, Xuân Diệu đã “đốt cảnh bồng lai để xua ai nấy về hạ giới”, để họ tỉnh giấc, không còn mơ màng về nơi xa xăm. Rõ ràng, trước mắt có cảnh đẹp nhưng tại sao lại không nhìn thấy? Là thật sự không nhìn thấy hay cơ hồ đã bỏ qua?

Nếu so sánh với những nhà thơ đương thời đang tìm cách trốn chạy thực tại thì có lẽ quan niệm của Xuân Diệu có phần tích cực hơn nhiều. Mỗi ngày tỉnh giấc với tác giả là một ngày vui, một khởi đầu. Vì là ngày vui, vì chỉ là điểm khởi đầu cho nên con người có nhiều thời gian để tận hưởng tất cả: “Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa/ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Trong mắt của thi sĩ, khi nữ thần ánh sáng chiếu tới, sớm mai đã bắt đầu, ánh sáng kéo theo niềm vui, niềm vui của một cuộc đời mới, một cuộc đời đang còn trẻ, mở mắt ra thấy cả biển trời bao la, để rồi tác giả quy chiếu lại, lấy tháng giêng, tháng khởi đầu của mùa xuân làm đại diện cho cả mùa xuân, lấy cái trừu tượng là “tháng giêng” cụ thể hóa bằng hình ảnh so sánh “một cặp môi gần” qua một tính từ đại diện cho vị giác “ngon”.  Với Xuân Diệu, mùa xuân gắn liền với tuổi trẻ, khởi đầu của mùa xuân là bước khởi đầu của tuổi trẻ, không quá vụng về nhưng cũng không quá sắc sảo, ở lứa tuổi này con người ta có thể nhìn nhận cảnh vật một cách tươi mới nhất. Nhưng điều đó cũng vô tình giới hạn lại mùa xuân của đất trời, chỉ lấy điểm khởi đầu của mùa xuân, chỉ lấy những sự vật hữu tình, khắng khít, chỉ lấy những hình ảnh sóng đôi để khiến cảnh vật xuân giống như một thanh niên đang yêu và đang được tình yêu đáp lại, thứ tình yêu đó mãnh liệt, nồng nàn khiến con người nhung nhớ khôn vơi. Tuy vậy nhưng ta không thể phủ nhận sức sáng tạo mạnh mẽ, dữ dội của nhà thơ khi ông có một cái nhìn vô cùng độc đáo, táo bạo về mùa xuân, khác với những thi sĩ trung đại, Xuân Diệu không chọn thiên nhiên làm chuẩn mực, thứ ông chọn là con người nhưng không phải là con người đơn lẻ, u buồn mà phải là con người đang trẻ tuổi, đang đắm say trong hạnh phúc tình yêu, có thể xem đây là một quan niệm tiến bộ, nhân văn.

Đồng thời, ở đoạn thơ này có một từ ngữ chúng ta không nên bỏ qua, đó chính là từ “của”, từ của được đặt đầu câu, mở ra những hình ảnh độc đáo, sáng tạo, mở ra bức tranh xuân như một phép màu, đồng thời từ “của” còn có một ý nghĩa khác nữa. Từ “của” giúp thi sĩ Xuân Diệu kết nối đoạn thơ này với đoạn thơ đầu tiên, góp phần lí giải lí do vì sao thi sĩ có những ước muốn táo bạo, ngông cuồng như vậy. Từ ‘của” là một từ chỉ sở hữu, với Xuân Diệu, cảnh sắc thiên nhiên đất trời mùa xuân tươi đẹp, rực rỡ này là của ông, vì là của ông cho nên ông mới lo sợ nó mất đi, nó nhạt mất, vì lo sợ cho nên mới tìm mọi cách để nắm giữ, không tiếc cả việc tranh giành quyền lực của tạo hóa để vĩnh hằng cảnh sắc tươi đẹp của mùa xuân trần thế. Và cũng vì lo sợ, vì muốn nắm giữ, vì muốn thay đổi quy luật của tạo hóa, muốn  xoay chuyển thời không nên niềm vui của thi sĩ chưa bao giờ là trọn vẹn:

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

Một cái tôi đau đáu trước cuộc đời, đau đáu trước sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian, đau đáu trước vận mệnh của mùa xuân, của tuổi trẻ đang dần mất đi nên ẩn trong niềm vui sướng là trạng thái u hoài, lo lắng, sung sướng để rồi vội vàng, sung sướng để rồi nhận ra sự trôi chảy của thời gian, để rồi thấu hiểu: không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông, để rồi “tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”, quyết tâm tranh đấu một lần, tận hưởng mật ngọt của mùa xuân, tiếc nuối mùa xuân ngay khi mùa xuân chỉ vừa mới bắt đầu. Đến đây làm tôi nhớ đến một câu nói như thế này: thanh xuân như một cơn mưa rào, cho dù bạn có bị ướt mưa nhưng vẫn muốn đắm mình trong cơn mưa ấy một lần nữa. Thật tiếc thay, cảnh đẹp thường không lưu giữ được lâu, pháo hoa tuy rực rỡ nhưng lại chóng tàn, sau tiếng nổ huy hoàng là sự yên tĩnh của bầu trời đêm. Trong niềm cảm xúc có phần day dứt tiếc nuối, thi sĩ đã thốt lên những câu từ có phần tuyệt vọng:

“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;”

Mỗi người đều có một nhận thức về không gian và thời gian riêng, với Xuân Diệu điều khiến ông ta day dứt trong cuộc đời này chính là sự ám ảnh của thời gian, ông luôn cảm thấy thời gian đi quá nhanh, còn bản thân lại chưa kịp làm gì, chưa kịp tận hưởng thì thời gian đã đi mất rồi, tất cả phút chốc hóa thành kí ức. Hoa nở để rồi hoa tàn, xuân đến để rồi xuân đi, quy luật cuộc đời tan hợp mấy ai có thể níu giữ?

Trong niềm đau đáu về giới hạn của thời gian, Xuân Diệu đã gắn mùa xuân với tuổi trẻ, như một định tính về thời gian ngắn ngủi, phôi pha. Nhà thơ như lập luận, như muốn tranh cãi cũng tạo hóa để rồi cúi đầu chấp nhận sự thật nghiệt ngã đến đau lòng. Trong cái khởi đầu đã mang mầm móng của sự kết thúc, trong đoàn tụ đã ẩn chứa sự li tan. “Đương tới – đương qua” trái nghĩa về mặt từ ngữ nhưng lại đồng điệu ở cảm xúc. “Tới” rồi “qua”, hay “qua” để rồi “tới”. Không còn giọng thơ reo vui như ở đoạn thơ trên, đến với đoạn này, Xuân Diệu trở nên trầm ngâm đến lạ, rõ ràng là nắm rõ quy luật của đất trời đấy nhưng không sao có thể chấp nhận được. Từ “non” đến “già”, từ khởi đến diệt có thể là một quá trình dài nhưng cũng có thể chỉ là trong một ý niệm của con người. Hơn ai hết, Xuân Diệu hiểu rõ, vạn vật trên thế gian này, kể cả con người rồi sẽ dần bị mài mòn, bao phủ bởi lớp bụi của năm tháng nhưng có lẽ vì quá hiểu rõ nên mới sinh lòng cảm khái. Với một con người yêu đời, yêu người tha thiết đến mãnh liệt như Xuân Diệu sao có thể chịu được những chớp bể mưa dâu?

Gắn tuổi trẻ của con người với cái ngắn ngủi của mùa xuân, vô tình Xuân Diệu đã đem buộc tất cả lại thành một khối cảm xúc đau đớn, u hoài, tuổi trẻ ngắn ngủi, mùa xuân càng ngắn ngủi hơn. Xuân của đất trời có thể tuần hoàn, tươi thắm mãi nhưng xuân của con người lại có hạn có hồi, mỗi mùa xuân qua già đi thêm một tuổi, mỗi mùa xuân qua khát khao của tuổi trẻ cứ thế trôi dần đi, để đến một ngày dòng máu nóng, sự nhiệt huyết lại đổi thành mảnh trăng tàn khuyết lạnh cô độc giữa thế nhân. Cùng trong tâm thế ấy, Hồ Xuân Hương cũng từng cảm khái:

“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ, tí con con”

(Tự tình 2)

Đâu phải con người không biết quý trọng, có điều bình minh của đời người ngắn ngủi, phút chốc tà dương đã đến gần, không sợ không thực hiện được việc mình muốn, chỉ sợ khát khao vẫn còn nhưng hoàng hôn của đời người đã xua bớt đi cái hào khí tuổi trẻ ngông cuồng, dám nghĩ dám làm ngày đó. Trong niềm u hoài đó, Xuân Diệu đã đau đớn thốt lên:

“Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.”

Như một tiếng kêu hốt hoảng giữa đất trời bao la, vì quá yêu nên mới tuyệt vọng, vì quá yêu nên mới lo sợ, vì quá yêu nên mới hoài nghi. Nhà thơ mong muốn tuổi trẻ của thể kéo dài, bình minh sẽ còn mãi nhưng mong muốn dù có tốt đẹp đến nhường nào thì cũng chỉ nằm trong giấc mơ của thi sĩ mà thôi. Trời đất có quy luật của trời đất, có bình minh ắt hẳn sẽ có hoàng hôn, nếu bình minh tồn tại mãi thì con người làm sao biết trân trọng nó, phải để hoàng hôn xuất hiện, con người mới ngộ ra, hóa ra ta đã lãng phí biết bao điều tốt đẹp. Trời đất có vô tình thì trời đất cũng tồn tại vĩnh hằng với thời gian nhưng sinh mệnh con người khi vừa cất tiếng khóc chào đời đã định sẵn sẽ có ngày phải rời xa nhân thế. Xuân Diệu hiểu rất rõ điều này:

“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;”

 Với thủ pháp nghệ thuật đối lập “còn – chẳng còn” đã khắc sâu bi kịch ấy của nhà thơ Xuân Diệu để rồi ông ai oán thốt lên hai chữ “bâng khuâng” khiến người đời day dứt khôn nguôi. Tiếc thì sao, tiếc để làm gì, tiếc liệu có thể níu giữ? Hai chữ “bâng khuâng” khắc họa sâu sắc tâm trạng thẫn thờ đến đau lòng của tác giả.

Trần gian vốn dĩ trong mắt thi sĩ là một thiên đường nơi hạ giới, rõ ràng thi sĩ đang sống trong mùa xuân, trong khu vườn xuân rực rỡ sắc màu nhưng chính tâm trạng bi quan, đau lòng ấy đã khiến ông có cái nhìn khác đi về cảnh vật:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng hờn vì độ phai tàn sắp sửa?

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”

Vẫn là thiên đường của hạ giới chứ là đâu. Nhưng thay vì mang vẻ mĩ lệ thì đến với đoạn thơ này thiên nhiên lại mang sắc màu của sự tàn phai, héo úa, để rồi tác giả ngửi được mùi của tháng năm, cảm nhận được vị của sự chia phôi, cảm nhận được sự li biệt của thiên nhiên, đất trời. Phải chăng vì lòng người biệt li nên thiên nhiên cũng nhuốm màu li biệt? Nếu ở đoạn thơ trên thiên nhiên hiện ra có lứa có đôi có tình, có sự quấn quýt, giao hòa thì ở đoạn thơ này thiên nhiên lại hiện lên với màu của sự phân cách, của một tiếc nuối sao biệt li dài, sao tương phùng quá đỗi khó khăn? Nguyễn Du từng viết:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”

(Truyện Kiều)

Vì mang tâm trạng chia biệt nên thiên nhiên đất trời cũng nhuốm màu tâm sự của thi nhân. Còn gì đau đớn hơn khi thứ mà mình yêu thích rõ ràng ngay ở trong tầm mắt nhưng phút chốc lại trôi xa ngàn trùng. Câu hỏi tu từ “phải chăng” được lặp đi lặp lại nhiều lần như để khắc sâu thêm sự hoài nghi, đau đáu của tác giả. Khung cảnh mùa xuân đang líu lo, rực rỡ bỗng chốc im bật, khung cảnh sống động bỗng chốc tĩnh lặng không khỏi khiến cho lòng người trầm tư. Chữ “đứt” diễn tả âm thanh đột ngột bị mất đi, bị ngắt quãng, dường như đó là tiếng khóc nấc của thi nhân khi nhận ra cảnh vật lung linh, đẹp đẽ trước mắt sắp lụi tàn mà bản thân lại không thể làm gì được để có thể cứu vãn, để có thể níu giữ, cái gì cũng không thể nắm chắc.

Con gió xinh một lần nữa xuất hiện, thì thầm, xào xạc bên nhành cây, ngọn cỏ như nhắn nhủ, như nói lời chia tay. Mượn thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, tác giả thổi hồn vào thiên nhiên thay mình nói lời chia biệt với mùa xuân, với tuổi trẻ, với mĩ cảnh của nhân gian. Thiên nhiên tan tác, lòng người cũng tan tác, khúc ngân tình si đổi thành khúc nhạc im bật, để thi sĩ cảm thán mà thốt lên:

“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”

Không còn hi vọng gì nữa rồi sao? Cả câu thơ mang sắc màu cảm thán, như khóc cho một giấc mơ chóng tàn, khóc cho một bình minh đang rực rỡ phút chốc lìa tan nhường chỗ cho hoàng hôn, cho đêm đen, cho những vì tinh tú. Sẽ không còn vầng dương rực rỡ của sáng hôm nay, dù mai kia vầng dương có xuất hiện thì cũng không thể mang lại cảm xúc như lúc ban đầu. Hoàng hôn của đời người đã phủ xuống, bao khát vọng thời son trẻ cũng sẽ chóng phai. Đau lòng là thế, nhưng nếu chỉ dừng lại ở sự tàn phai, héo úa và tiếc nuối thì đó không phải là Xuân Diệu, không phải là ông hoàng thơ tình yêu, không phải là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Trong niềm đau đáu về sự phai tàn, héo úa Xuân Diệu bất chợt thức tỉnh nhận ra giải pháp cứu vãn tình hình, ngăn chặn sự già nua héo úa đang diễn ra trước mắt, nhà thơ như vui sướng reo lên:

“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,”

Không sao cả, mùa xuân vẫn còn đang đẹp, tuổi trẻ vẫn còn tồn tại, phải nhanh chóng tỉnh thức, chạy đua với thời gian để giữ lại vẻ thanh tân của đất trời, để không hối tiếc khi mùa xuân trôi qua, tuổi xuân không trở lại. Mang tâm hồn trẻ trung, yêu đời, câu thơ không chỉ là hồi chuông tỉnh thức mà còn là tiếng giục giã, là lời kêu gọi con người phải sống hết mình, sống trọn vẹn từng khoảnh khắc. Ba chữ “mau đi thôi!” như réo gọi, như vẫy chào tác giả chạy về phía trước, chạy về hướng mặt trời mọc, chạy về nơi có hương hoa, có đồng cỏ xanh tươi, có ong bướm dập dìu, có yến anh hát ca để làm sống lại một lần nữa sắc xuân tưởng chừng đã mất.

Tay dang tay, ôm trọn đất trời vào lòng, một mình đắm say, một mình tận hưởng:

“Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Trong niềm khát khao yêu đời, trong sự sống dậy những niềm đam mê tưởng chừng đã mất bởi trạng thái u buồn, tiếc nuối xuân qua, ta như nghe từng bước chân vội vã của thi sĩ đang chạy đua với thời gian, muốn tranh thủ chiếm lĩnh tất cả cho thỏa lòng yêu thương.

Có thể nói, Xuân Diệu là nhà thơ của trần thế, tích cực nhập thế, dù cho hiện thực có phơi bày sự tàn phai thì nhà thơ cũng tìm cách lưu giữ lại những gì tươi đẹp nhất, Xuân Diệu có thể sống một đời sống không tiếc nuối bởi ông biết trân trọng thời khắc, biết giới hạn của bản thân giữa đất trời bao la.

Thiên nhiên mùa xuân hồi tỉnh, trở lại với vẻ đẹp vốn có của nó, nào là mơn mởn, non tơ, nào là cánh bướm dập dìu khoe sắc, nào là non nước, nào là hoa cỏ rạng ngời. Niềm thiết tha yêu đời đã một lần nữa gột rửa, thanh tẩy đi sắc héo úa tàn phai của đoạn trước, mùa xuân trở về đúng với bản chất thật của nó, khiến con người theo đuổi, truy cầu.

Đọc đoạn thơ ta thấy một Xuân Diệu với cái tôi vô cùng ham hố, vô cùng cuồng nhiệt, hàng loạt động từ mạnh được tác giả sử dụng với mức độ tăng tiến: nào là ôm, riết, say, thâu, hôn để rồi đỉnh điểm của tình yêu là cắn. Trong mắt thi sĩ, mùa xuân như quả chín mọng trên cành, thi sĩ thèm thuồng muốn nếm thử, muốn chiếm giữ nó. Những từ láy chỉ cảm giác căng tràn, hả hê kết hợp uyển chuyển, lồng ghép, hiển hiện giữa những dòng thơ đã góp phần nào nói lên tâm sự của  Xuân Diệu, thi sĩ không chỉ giục giã mà còn hăm hở ôm ghì lấy sự sống để tận hưởng hương sắc và mật ngọt của cuộc đời. Cũng phải thôi, bức tranh mùa xuân lúc này quả thật vô cùng sống động, nó khiến người ta không cưỡng lại được mà chiếm giữ. Điệp ngữ “ta muốn” lặp đi lặp lại với âm hưởng khẩn thiết trở thành cao trào của khát vọng sống, tác giả một lần nữa nêu lên ước muốn của mình, không một chút che giấu. Kết hợp với điệp từ “và”, điệp từ “cho” tạo nên một âm hưởng dồn dập, gấp gáp của những bước chạy đua cùng thời gian, cùng sự sống của thi sĩ.

Cả bài thơ, ta bắt gặp một Xuân Diệu sống cuống quýt, vội vã, luôn lo sợ sẽ mất đi nhưng đồng thời qua đó ta cũng thấy được một Xuân Diệu rất tích cực, có phần tinh tế và nhạy cảm, luôn rộng mở đế đón nhận mọi màu sắc, hương thơm, vị ngọt của cuộc đời.

Quan niệm sống của tác giả vừa thực tế vừa lãng mạn đậm chất nhân văn, đặc biệt những hình ảnh trong khổ thơ cuối là những hình ảnh mang tính biểu tượng chỉ khái quát tổng thể toàn vẹn, hoàn mĩ nhất của cuộc sống tuổi trẻ. Ta cảm thấy như Xuân Diệu đưa người đọc đi vào từng chặng của niềm hạnh phúc, đắm say giống như con ong đắm chìm trong mật hoa và bay ra ngất ngây trong bầu mật ngọt của nó.

Xuyên suốt cả bài thơ “Vội vàng” ta có thể thấy, Xuân Diệu đã sống đúng như ông đã từng khẳng định trong bài thơ “Giục giã”:

“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối

Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”

Thi sĩ đã sống trọn vẹn với tuổi xuân của mình, với trái tim thiết tha yêu đời, rạo rực. Dù đã nằm xuống nhưng những vần thơ của ông vẫn đọng mãi cùng năm tháng, vẫn khiến trái tim tuổi trẻ đập liên hồi. Thật không hổ danh “Ông hoàng thơ tình yêu”, thật không hổ danh nhà thơ của tình yêu, mùa xuân và tuổi trẻ. Cùng với thi phẩm “Vội vàng”, Xuân Diệu đã đánh một dấu son đậm trong cả quãng đời sáng tác của mình, những vần thơ của ông luôn khuyến khích độc giả phải biết trân trọng thời khắc hiện tại, trân trọng tuổi thanh xuân để một mai cơn mưa ấy có trôi qua thì cũng không có quá nhiều tiếc nuối, vướng bận…

Ngọc Kiều Long

 

 

 

 

 

 

 

No Responses

Write a response